Những ghi chép về Vương Chiêu Quân trong sử sách, chỉ có vỏn vẹn vài trăm chữ ngắn ngủi, nhưng cảnh ngộ của nàng dường như lại là một đề tài sáng tác bất tận của giới thi ca, nghệ thuật. Thông qua hình ảnh của nàng, các văn nhân thi sĩ bày tỏ nỗi thương cảm có tài nhưng không gặp thời của chính bản thân mình.
Vương Chiêu Quân là một trong tứ đại mỹ nhân trong lịch sử Trung Hoa. “Lạc nhạn” trong câu thành ngữ “Trầm ngư lạc nhạn” (chim sa cá lặn) chính là bắt nguồn từ câu chuyện của nàng. Liên quan đến sắc đẹp của Vương Chiêu Quân, trong “Hậu Hán thư” (Nam Hung Nô truyện) có ghi lại một đoạn sinh động như sau: “Vương Chiêu Quân ban đầu nhập cung không được Hán Nguyên Đế chú ý đến. Khi mở tiệc từ biệt Hô Hàn Tà, Hán Đế dâng tặng năm mĩ nữ. Vẻ đẹp của Chiêu Quân, khiến cả hoàng cung rực sáng, khi nàng ngoảnh đầu nhìn lại, tất cả đều ngơ ngác sững sờ”.
Vương Chiêu Quân xuất thân dòng dõi thư hương, phẩm hạnh thanh cao, vì không chịu đút lót cho họa sĩ thời đó là Mao Diên Thọ, nàng bị ông ta vẽ xấu. Như vậy, cho dù khí chất của Chiêu Quân xuất chúng ra sao, dung mạo xao động lòng người thế nào, cũng chỉ có thể cô độc cả đời, già chết trong chốn lãnh cung.
Tuy nhiên là ngọc quý, làm sao có thể bị chôn vùi cho được. Một người chí tiết thanh cao như Vương Chiêu Quân, sao có thể bị kẻ tiểu nhân hãm hại, rồi bị chôn vùi cả đời, uất ức mà chết cho được?
Lúc này, vua chúa Hung Nô là Hô Hàn Tà đến Trung Thổ để xin để tỏ lòng thần phục nhà Hán, một phần trong hệ thống triều cống giữa nhà Hán và Hung Nô. Thiền vu nắm lấy cơ hội để đề nghị được trở thành con rể của Nguyên Đế. Nhưng lần này Hán Nguyên Đế lại muốn chọn cung nữ để gả cho ông ta, liền sai người truyền lệnh đến hậu cung: “Ai đồng ý hòa thân cùng Hung Nô, thì sẽ được sắc phong làm công chúa”. Tuy nói là có thể một bước lên mây trở thành phượng hoàng, nhưng chẳng ai nguyện ý rời xa quê nhà mà gả đến một nơi đồng khô cỏ cháy xa xôi lạnh lẽo, còn phải sống chung với dị tộc không cùng ngôn ngữ, văn hóa.
Vậy mà, Vương Chiêu Quân hoàn toàn khác với mọi người lúc này lại bước ra, tự nguyện gả đến Hung Nô, điều này bộc lộ rõ trí huệ sáng suốt và lòng can đảm phi thường của nàng.
Viên minh châu cuối cùng cũng đã tỏa sáng
Vào hôm triều đình đãi tiệc chia tay chuyến viếng thăm Trường An của Thiền Vu Hô Hàn Tà, Hán Nguyên Đế cho gọi Chiêu Quân đến. Chiêu Quân vừa bước vào, khắp hoàng cung bỗng sáng rực hẳn lên. Dung nhan chói lọi và khí chất thoát tục của nàng, quả thực không khác gì tiên nữ giáng trần, Hán Nguyên Đế kinh ngạc sửng sốt mãi không thôi, trong lòng thật sự rất muốn giữ nàng ở lại, nhưng lại không thể thất hứa với vua chúa Hung Nô được, đành phải gả nàng sang Hung Nô.
Chiêu Quân bất chấp tiết trời lạnh giá mà gả đến vùng đại mạc Mông Cổ phương bắc xa xôi nghìn dặm, chính là vì hòa bình lâu dài giữa Hung Nô và nhà Hán, nhờ đó mà bách tính hai bên tránh được nỗi đau chiến tranh. Sau khi nàng ra biên ải hòa thân, chiến tranh lâu dài giữa hai dân tộc Hồ – Hán từ đó đã được dập tắt, còn mang văn hóa Trung Nguyên đến Hung Nô. Nhà Hán và Hung Nô từ đó duy trì được hòa bình hơn 60 năm, có ảnh hưởng vô cùng to lớn và sâu sắc đối với sự hòa thuận của hai dân tộc. Có người thậm chí cho rằng việc mang lại bình yên cho hai dân tộc Hán – Hồ của Vương Chiêu Quân hoàn toàn có thể đứng ngang hàng với danh tướng triều đại nhà Hán là Hoắc Khứ Bệnh.
Truyền thuyết về vẻ đẹp của Vương Chiêu Quân thì có rất nhiều. Truyền thuyết kể rằng khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn “Xuất tái khúc”. Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Về sau người ta đã dùng từ “Lạc nhạn” trong câu “Trầm ngư lạc nhạn” (chim sa cá lặn) để hình dung vẻ đẹp tuyệt thế của Vương Chiêu Quân.
Nhưng Chiêu Quân đã có thể tự nguyện ra biên ải, thì tất nhiên không phải là người tầm thường, cô không hề cảm thấy xót xa cho bẩn thân mình. Truyền thuyết kể rằng Chiêu Quân vốn là Tiên nữ trên trời, đến nhân gian gả cho Thiền Vu của Hung Nô. Mục đích là để mang đến văn hóa cho Hung Nô và hòa bình cho hai dân tộc Hồ – Hán, rồi dựng nên một hình tượng xả thân vì người cho nhân gian.
Vẻ đẹp của Tiên nữ trong các câu chuyện truyền thuyết cũng mãi được lưu truyền: Khi Chiêu Quân ra biên ải, khi vừa mới đi đến bên sông Hắc Hà, ngay lúc đó, gió lớn nổi lên, cát bụi rợp trời, trước mắt chỉ thấy một mảnh tối tăm, người ngựa không cách nào đi tiếp được nữa. Chiêu Quân không hề sợ hãi mà lấy ra cây tì bà mang từ quê nhà, bắt đầu gảy lên. Tiếng tì bà mĩ diệu vừa mới vang lên, gió bắc ngừng thổi mạnh, mây lành bảy màu khắp trời, băng tuyết tan chảy, vạn vật bắt đầu sinh trưởng. Vùng đất cằn cỗi trong chốc lát đã mọc đầy cỏ xanh, nước của sông Hắc Hà cũng trở nên trong veo, khắp vùng nở đầy bông hoa dại tươi đẹp. Thiền Vu mừng rỡ, mang theo người dân của ông định cư ở bên sông Hắc Hà.
Về sau, Chiêu Quân đã theo Thiền Vu đi khắp chân núi Âm Sơn và nam bắc của vùng đại mạc. Chiêu Quân đi đến nơi nào, thì cỏ cây nơi ấy liền trở nên tươi tốt; đến những nơi thiếu nước, Chiêu Quân dùng tì bà vẽ lên không trung, mặt đất liền xuất hiện dòng suối trong vắt và cỏ xanh như thảm; Chiêu Quân còn lấy hạt giống ngũ cốc từ trong túi gấm tinh xảo của mình, rải xuống đất liền sinh ra các loại hoa màu và ngũ cốc.
Chiêu Quân đã nhận được tình cảm yêu thương của hết thảy người dân Hung Nô, truyền thuyết kể rằng khi nàng qua đời, người dân xa gần đều vội đến đưa tiễn. Họ đã lấy những chiếc áo gói thành từng bao đất, đắp thành mộ Chiêu Quân, chính là “thành chủng” (mộ xanh) nổi tiếng tọa lạc tại thành Hohhot ở nội Mông Cổ bây giờ. Ngôi mộ này cũng có truyền thuyết đặc biệt, tương truyền nó thay đổi ba lần trong một ngày: “thần như phong, ngọ như chuông, dậu như tung”. Ý chính là, mộ Chiêu Quân buổi sáng nhìn thì giống như một ngọn núi, giữa trưa giờ ngọ giống một cái chuông, lúc hoàng hôn giờ dậu nhìn thì thấy giống như một cây nấm hương vậy.
Lịch sử xưa nay có một cách nói: “Hồng nhan họa thủy”, Chiêu Quân trái lại đã dựng lập nên một hình mẫu “Hồng nhân lập công”. Trên thực tế, những tuyệt thế mĩ nữ, danh nhân được lưu danh trong sử sách, trong truyền thuyết, phần đông là vì có nhiệm vụ trên thân, mới được thiên thượng phái đến nhân gian. Thiên thượng xưa nay cũng vẫn luôn xem vấn đề hoang dâm, háo sắc là tội rất nặng. Người nào có thể vượt qua ải này, sẽ nhận được phần thưởng tương ứng, cũng như những ai không thể tự mình khống chế thói dâm tà xấu xa này thì cũng sẽ có sự trừng phạt tương tự.
Nếu như Hán Nguyên Đế coi sắc nặng hơn chữ tín, không thể tự kiềm chế bản thân mình, kiên quyết giữ Chiêu Quân ở lại, vậy chắc chắn sẽ dẫn đến sự phẫn nộ của Thiền Vu Hung Nô, khói lửa chiến tranh không dứt là điều rất khó mà tưởng tượng; nhưng Nguyên Đế dẫu nhìn thấy Chiêu Quân dung mạo như tiên, vẫn kiên quyết lấy đại cục là trọng, tuân thử lời hứa, vì vậy đã đem đến hòa bình trong suốt sáu mươi năm cho hai dân tộc Hồ – Hán, đây là phần thưởng của thiên thượng dành cho đức hạnh của bậc quân vương. Trái lại, hoang dâm vô đạo như Trụ Vương triều đại nhà Thương, chìm đắm trong mỹ sắc, mạo phạm Thần linh, trời liền sai Đát Kỷ khiến cho ông ta mất nước nhà tan.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét